![]() |
Ảnh mang tính minh hoạ |
1.- Hợp đồng mua bán nhà tính bằng ngoại tệ là vi phạm pháp luật
12:30 PM, 09/02/2012
(Chinhphu.vn) - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẳng định, việc hợp đồng mua bán nhà có nội dung "giá bán tính bằng USD" là vi phạm quy định pháp luật về ngoại hối.
Gia đình ông Ngô Nhật Thái (Ba Đình, Hà Nội; email: nnthai3yt@...) ký hợp đồng mua nhà với Sàn giao dịch bất động sản từ tháng 6/2009 với giá tính bằng đô la Mỹ (USD) và quy định khi thanh toán (theo từng đợt) sẽ trả bằng Việt Nam đồng quy đổi theo tỷ giá tại thời điểm thanh toán.
Đến tháng 10/2011, gia đình ông Thái đã trả khoảng 70% tổng giá trị nhà, phần còn lại sẽ thanh toán khi nhận nhà.
Tuy nhiên, theo ông Thái được biết, Nghị đinh 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 của Chính phủ quy định, các tổ chức kinh doanh không được phép ghi giá và thanh toán dịch vụ bằng ngoại tệ.
Ông Thái đề nghị cơ quan chức năng cho biết, ông có thể yêu cầu Sàn giao dịch bất động sản cho phép ông thanh toán phần giá trị còn lại của ngôi nhà theo tỷ giá USD tại thời điểm ký hợp đồng không?
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giải đáp thắc mắc của ông Thái như sau:
Tại Điều 22 Pháp lệnh Ngoại hối quy định: "Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng khác, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, ủy thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép".
Đồng thời, Điều 29 Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam và đưa ra các trường hợp cụ thể được loại trừ, trong đó không bao gồm hành vi "thỏa thuận giá cả hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ".
Căn cứ các nội dung trên, việc hợp đồng mua bán nhà có nội dung "giá bán tính bằng USD" là vi phạm quy định pháp luật về ngoại hối.
Về đề nghị của ông Thái liên quan đến việc thanh toán hợp đồng, tại Điều 388 Bộ luật Dân sự quy định: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự".
Tại khoản 1 Điều 423 Bộ luật Dân sự quy định: "Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".
Ngoài ra, khoản 1 Điều 389 Bộ luật Dân sự về các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự quy định: "Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội".
Như vậy, việc giao kết hợp đồng dân sự là thỏa thuận của các bên và các bên và các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng nhưng không được trái pháp luật.
Do đó, liên quan đến đề nghị của ông Thái về việc "ông có thể yêu cầu được thanh toán cho Sàn giao dịch bất động sản theo tỷ giá tại thời điểm ký hợp đồng không", Ngân hàng Nhà nước thấy rằng, việc giao kết hợp đồng với nội dung "giá bán tính bằng USD" là vi phạm quy định pháp luật về quản lý ngoại hối, trái với quy định tại Khoản 1 Điều 398 Bộ luật Dân sự.
Việc thanh toán số tiền còn lại của Hợp đồng do các bên thỏa thuận và phải tuân thủ theo quy định pháp luật về quản lý ngoại hối.
Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng cảm ơn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có thông tin giải đáp công dân qua Cổng TTĐT Chính phủ.
Phòng Thông tin phản ánh của tổ chức, công dân
ThS. Nguyễn Thùy Trang*
Thực hiện Nghị quyết số 02/2011/NQ-CP ngày 9/1/2011, Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP ngày 01/3/2011 của Chính phủ, Chỉthị số 01/CT-NHNN ngày 1/3/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, năm 2011, các hoạt động giao dịch, niêm yết,thanh toán, quảng cáo củangười cư trú, người không cư trú trên lãnh thổ Việt Nam đã,đang và sẽđược siết chặt quản lý theo đúngcác quy định về quản lý ngoại hốicủa Nhà nước. Nhưng, quản lý nhưthế nào, xử lý ra làm sao vẫn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Chấnchỉnh việc sử dụng đồng tiền ViệtNam, ngăn chặn tình trạng đôla hóa nên được xem xét từgốc, đólà các quy định củapháp luật,sau đó là việcthực thi và vận dụngcác quy địnhđó trên thựctế. Trong bối cảnhkinh tế thịtrường mở cửa, giao dịch thông thương giữa các quốcgia ngày càng mở rộng, đồng tiền Việt Nam đang chịusức ép nặng nề củavấn đề lạm phát và mất giá, để đối phó vớicác quy định pháp luật về ngoại hối, nhiềudoanh nghiệp đã lựa chọnnhững phươngthức khá “linh hoạt” nhằm bảotoàn giá trịnguồn tiềncủa mình trong các giao dịch vốn và giao dịch vãng lai.
1. Các quy định pháp luậthiện hành
Từ các quy định của Pháp lệnh vàNghị định về quản lý ngoại hối…
Điều 22, Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 ngày
13/12/2005 của Ủy ban Thườngvụ quốc hội(sau đây gọi tắt là PL số 28) “Quy định hạn chếsử dụng ngoại hối: Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch vớitổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, ủythác, đại lý và các trường hợp cần thiếtkhác được Thủ tướng Chính phủ cho phép”.
Điều 29, Nghịđịnh 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/006 hướng dẫn thi hành Pháp lệnhNgoại hối quy định “Trên lãnh thổ ViệtNam, mọigiao dịch, thanh toán, niêm yết,quảng cáo củangười cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hốitrừ các trường hợp sau: …”. Tiếp sau đó,là 12 trường hợp đượcphép giao dịch bằng ngoại hối. Nếu tổchức, cá nhân không thuộc 12 trường hợp đã được liệt kê sẽ phải tuân thủ các quy định của pháp luậtvề ngoại hối.

Đến hướng dẫn củaTòa án nhân dân tối cao:
Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tốicao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luậttrong việc giải quyết các vụán kinh tế, điểm b, khoản3 mục I quy định: “Nếu trong nội dung hợp đồng kinh tế, các bên có thỏathuận giá cả,
thanh toán bằng ngoại tệ, trong khi đó,một hoặc các bên không được phép thanh toán bằng ngoại tệ, nhưng sau đó,các bên có thỏa thuận thanh toán bằng đồng ViệtNam hoặc trong nội dung của hợp đồng kinh tế, các bên thỏa thuận ngoại tệ làm đồng tiền định giá (để đảm bảoổn định giá trị củahợp đồng) nhưngviệc thanh toán là bằng Đồng ViệtNam, thì hợp đồng kinh tế không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Pháp lệnhhợp đồng kinh tếvà do đó, không bị coi là vô hiệu toàn bộ”.
2. Việc ápdụng các quy định pháp luật trên thực tế
Khi nghiên cứu các quy định trên, hẳn chúng ta đều nhận thấy sự mâu
thuẫn giữa pháp lệnh, nghị định và hướng dẫncủa Tòa án liên quan đến vấn đề niêm yết, giao dịch bằngngoại hối. Cho đếnthời điểm này, nhiều tòa án vẫn áp dụng điểm b, khoản 3 Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP để xem xét
hợp đồng vô hiệu. Vậy việc xem xét này có phù hợp vớiquy định pháp luật
hiện hành hay không? Hiện nay, vẫncòn nhiều quan điểmtrái ngược.
a) Quan điểmthứ nhấtcho rằng, việccăn cứvào điểm b, khoản 3 mục I Nghị quyết04/ 2003 là hợp lý. Lý do:
- Pháp lệnhNgoại hối chỉ cấm các hành vi sau “giao dịch, thanh toán,
niêm yết,quảng cáo” thực hiện bằngngoại hối. Nhưng giá ghi trong hợp đồng không thuộccác trường hợp trên, thậm chí căn cứ theo Luật Sởhữu trí tuệ, giá trong hợp đồng, nhiều khi còn được coi là “bí mật kinh doanh” nếu giá cả hàng hóa đó không thuộccác trường hợpphải đăng ký, kê khai hay niêm yết theo quy định củapháp luật về giá. Trên thực tế, hầu hết giá cả củahàng hóa là do cácbên tự thỏathuận, và các bên có quyềnthỏa thuận vềviệc công khai hay giữ bí mậtvề giá cảtrong hợp đồng. Do vậy, nếu như có cam kếtgiữ bảomật hoặc giá không thuộc trường hợp phải niêm yếtcông khai, thì việc ghi giá trong hợp đồngsẽ không thuộcmột trong bốn hành vi trên và đương nhiên, trong trường hợp này, việc ghi giá bằng ngoại tệ không trái các quy định về quản lý ngoại hối.
- Căn cứ vào tình hình thực tế, mục đích quản lý củaNhà nước là hạn chếhoặc nghiêm cấm các giao dịch, thanh toán bằng ngoại tệđối với các hợp đồngký kết và thực hiện trong lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, chỉ cầncác bên thựchiện việc thanh toán bằng Việt Nam đồngthì hợp đồngđó vẫn được chấp nhận khi giải quyết tranh chấp tạitòa án.
- Căn cứvào lợi ích của các bên và xu hướng phát triển các quan hệ kinh doanh thương mại hiện nay, các doanh nhân có quyền lựachọn cho mình những giải pháp an toàn nhất đốivới khoản tiền củamình, và việclấy tỷ giá làm cơsở xác định giá trị hợp đồng sẽ giảm cho họnhững rủiro trượt giá. Hơn nữa, có nhiều hợp đồng giữa những người cư trú hoặckhông cư trú
trên lãnh thổ Việt Nam, nhưngnguồn hàng lại nhập từ nước ngoài, thì việc định giá bằng đồng Việt Nam trong hợp đồng sẽ gây rủiro cho người bán hoặc người mua nếutỷ giá tăng hoặcgiảm.
- Đương nhiên, mộtcăn cứ pháp lý mấu chốt không thể bỏ qua, đó chính là quy định tại điểm b, khoản 3 mục I, Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP của HĐTP TANDTC.
b) Quan điểmthứ hai lại cho rằng, đối với mọi giao dịch được thựchiện trên lãnh thổViệt Nam, phải được thể hiện bằng đồng Việt Nam.
Những người bảo vệ quan điểm này đưa ra những lý lẽ sau:
Những người bảo vệ quan điểm này đưa ra những lý lẽ sau:
- Căn cứ quy định của pháp luậtvề quảnlý ngoại hối. Khái niệm của các hành vi “giao dịch”, “niêm yết”, “quảngcáo” khá chung chung, nên sẽchia làm các trường hợp:
Trường hợp1: Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa mà giá hàng
hóa thuộcdiện phải đăng ký, kê khai hay niêm yết theo quy định củaNhà
nước thì việcghi giá trên hợp đồngbắt buộc phải bằngđồng Việt Nam.
Trường hợp2: Đối với các hàng hóa không thuộctrường hợp 1, theo quan điểm thứ nhất,sẽ không bị coi là vi phạm pháp luật về ngoại hối. Tuy nhiên, nhữngngười ủnghộ quan điểm hai lại không đồngtình với lập luậnđó, bởi lẽ,trong nhóm 4 hành vi liệt kê của Pháp lệnh Ngoại hối, không chỉ có cụm từ “niêm yết”, mà còn có hành vi “giao dịch” và “quảng cáo”. Giao dịch là mộtkhái niệm rộng, từ điển tiếngViệt định nghĩa đây là hoạt động “đổi chác, mua bán, giao thiệp,...”, vậyhành vi mua và bán thông qua hợp đồng, thì việcký hợp đồngvới các điều khoản liên quan cũngsẽ nằm trong hoạt động “giao dịch” đó, hoặc việcgiới thiệu giá cả hàng hóa cho các đốitác bằng ngoại tệ (vì khi gửi bản chào giá, bên bán sẽ không chỉ gửi cho mộtmà có thểlà rấtnhiều đối tác) thì cũngcó thể xem như mộthành vi quảng cáo về hàng hóa (làm cho đông đảoquần chúng biết đến món hàng củamình).
Do vậy, việc ghi giá trong hợp đồng bằng ngoại tệ,bất luận trong trường hợp nào cũngvẫn bịcoi là trái luật.
- Căn cứ theo chủ trương, chính sách của Nhà nước. Từ đầu năm
2011 đếnnay, Chính phủ,Ngân hàng Nhà nước đã ra một loạt các nghị quyết,chỉ thị về việcsiết chặt quản lý ngoại hối, ngăn chặn tình trạngđô la hóa nền kinh tế. Do vậy, việclấy tỷ giá để làm căn cứ thanh toán giá trị hợp đồng xem ra không còn phù hợp với chủ trương, chính sách của Chính phủ và các cơ quan hữuquan trong tình hình hiện nay. Muốn ngăn chặn tình trạng đô la hóa thì không thể duy trì và công nhận việc dùng đô la hay ngoại tệ nào đó để làm cơ sở định giá và lấy tỷ giá tạithời điểm thanh toán để tính giá trị hợpđồng, vì như vậy, vẫn tiếptục gây nên sựbất ổn đối vớigiá trị củatiền đồng, và doanh nghiệp sẽ vẫn tiếptục sử dụng “con dao hai lưỡi”giữa tỷ giá và tiền đồng để đối phó với các quy định pháp luật về quản lý ngoại hối.
- Căncứ theo tinh thần hướng dẫncủa Nghị quyết 04/2003/NQ- HĐTP. Xét về hiệu lực, Nghịquyết 04/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn thực hiện hợp đồng kinh tếtheo điểm a, khoản 1 Điều8 Pháp lệnh Hợp đồngkinh tế. Tuy nhiên, từngày 1/7/2006, khi Bộluật Dân sự và Luật Thương mại
2005 có hiệu lực thì Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế đã hết hiệu lực. Việc việndẫn Nghị quyết hướng dẫn cho mộtvăn bản đã hếthiệu lực pháp luật, điều này sẽ trái với nguyên tắc áp dụng pháp luật.Do vậy, việc các tòa án áp dụng tinh thần củađiểmb, khoản 3 mục I, Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP khi Pháp lệnh Hợp đồngkinh tế đã hết hiệu lực, sẽ được coi như việc xét xử theo án lệ, mà ởViệt Nam, việc xét xử theo án lệ chưa được coi là một cơ sở chính thống. Từ nhận định trên, căn cứ pháp lý là Nghị quyếthướng dẫn củatòa án thiếu tính thuyếtphục nếu các hợp đồng được ký kết từ ngày 1/7/2006 trởvề sau. Ngoài ra, Pháp lệnh số 28 và Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ra đời sau này cũng đã có những quy định cụ thểvề quản lý ngoại hối, và hướng dẫn của tòa án đãkhông còn phù hợpvới tinh thần của các điều luật này.
- Ngoài ra, khi ghi giá bằng ngoại tệ, lấy căn cứ tỷ giá để tính giá trị hợpđồng, đốivới các doanh nghiệp(đặcbiệt là doanh nghiệpNhà nước- người quản lý doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn nguồn vốnchủ sở hữu) sẽ gặp một số rủi ro pháp lý sau:
+ Có thể bị xửlý vi phạm về hành chính vềviệc vi phạm các quy định pháp luậtvề ngoại hối, hoặc thậm chí vi phạm pháp luật hình sựnếu vì việc ghi giá và căn cứ tỷ giá để tính ra Việt Nam đồngtại thời điểm thanh toán, khiến doanh nghiệp phải chịumột khoản chênh lệch lớn so với thời điểm ký hợpđồng trong trườnghợp tỷ giá tăng, gây thất thoát cho tài sản của Nhà nước. Hành vi trên, nếu bị phát hiện và xửlý nghiêm khắc,có thể sẽ bị truy cứu theo Điều 165 Bộluật Hình sự2000 (sửa đổi, bổ sungnăm 2009) với tội danh “cố ý làm trái các quy định củaNhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” nếu thiệt hại từ 100 triệuđến dưới 300 triệu (khoản 1) hoặc giá trị thiệt hại cao hơn theo các khoản 2, 3 vớikhung hình phạt cao nhất của loại tộiphạm này lên đến 20 nămtù giam.
+ Khi bị xử lý hành chính hoặckhởi tốhình sự, khó có cơ sởviện dẫn điểmb, khoản3, mục I, Nghịquyết 04/2003/NQ-HĐTP để bảo vệ cho mình, vì hướng dẫn của Nghịquyết trên áp dụngcho các vụán kinh tếvà là căn cứđể xét hợp đồng vô hiệu. Còn việcngười nào đó vi phạm các quy định về ngoại hối dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, gây thiệt hại tài sản cho Nhà nước thì hành vi này không còn thuần túy vềmặt dân sự,mà đã có dấuhiệu của tội phạm hình sự. Và việchành vi đócó bị coi là vi phạm hành chính hay hình sự hay không, sẽ phụ thuộc vào phân tích, nhận định củacơ quan điềutra, viện kiểm sát, tòa án hoặccác cơ quan khác có liên quan.
Chúng tôi đồngthuận với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, vì hiện nay, việcáp dụng pháp luật về quản lý ngoại hối còn thiếuthống nhất, để kiệntoàn và áp dụng các biện pháp quản lý triệt để các giao dịch bằng tiền đồngcó giá trị,tôi xin đưa ra một số kiến nghị cụ thể như sau.
3. Một số kiến nghị để áp dụng thống nhất các quy định pháp lệnh
về quản lý ngoại hối
a) Hoàn thiện các quy định pháp luậtvề quản lý ngoại hối
Sửa đổi, bổ sung Điều 22 Pháp lệnhsố 28, để thốngnhất cách hiểu và giải thích theo đúngtinh thần củađiều luật, như sau: “Quy định hạn chếsử dụng ngoại hối: Trên lãnh thổ ViệtNam, mọithỏa thuận, giao dịch, thanh toán, niêm yết,quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối,…”.
Điều 10, Nghịđịnh 160/2006/NĐ-CP quy định về đồng tiền thanh toán trong giao dịch vãng lai thiếurõ ràng và có sự xung đột với Điều 22, Pháp lệnhsố 28, Điều 5, Điều 29, Nghịđịnh 160/ 2006/NĐ-CP. Nguyên vănĐiều 10 như sau: “Đồng tiền sử dụng trong thanh toán vãng lai: (1). Người cư trú được lựa chọn đồng ViệtNam, ngoạitệ tự do chuyển đổi và các đồng tiền khác mà tổ chức tín dụng được phép chấpnhận làm đồng tiền thanh toán trong giao dịch vãng lai. (2). Trường hợpsử dụng đồng ViệtNam trong thanh toán vãng lai, ngườicư trú và người không cư trú được chuyểnkhoản thông qua tài khoảnđồng Việt Nam mở tại tổ chức tín dụng được phép”. Theo tinh thần của điều khoản này, pháp luậtkhuyến khích việcthanh toán bằng tiền Việt Nam đồng thời với cảnhững giao dịch được phép thanh toán bằngngoại tệ(khoản 2, được chuyển khoảnthông qua tổ chức tín dụng), còn với việc thanh toán bằng ngoạitệ thì không quy định rõ ràng nên cũng không hiểu có bị cấm “chuyển khoản” hay không?). Bên cạnh đó,quy định này còn có thể gây nên cách hiểu khác: “Trong giao dịch vãng lai, thì chỉkhi thanh toán qua chuyển khoản mới cần thiết phải quy đổi sang Việt Nam đồng, còn thanh toán tiền mặt thì các bên đương sự có quyền tựdo?”. Với cách diễn giải này, chúng ta sẽ nhận thấy trái với các quy định đã viện dẫn ở phần trên. Do vậy, theo suy nghĩcủa tôi, khi sửa đổi, bổsung Nghị định 160/2006/NĐ-CP, nên bỏ Điều 10 hoặc sửa theo hướng cụ thể,rõ ràng hơn, tránh nhữngcách giải thích khác nhau về điều khoản này.
Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao sớm ban hành Nghịquyết thay thế Nghị quyết 04/2003/NQ-HĐTP, trong đó có điềukhoản hướng dẫn về hợp đồng kinh tế vô hiệu. Vì các văn bản quy phạm pháp luậtđã có sựthay đổi và các hướng dẫn củaTòa án Nhân dân tối cao không còn phù hợp với các quy định pháp luật về chính sách cũngnhư các quy định pháp luậtvề quản lý ngoại hối ra đời sau này.
Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành thông tư hướng dẫn cụ thểvề việcsiết chặt việc quản lý ngoại hốitrong tình hình hiện nay, nhằm tạo mộthành lang pháp lý thống nhấtđể các doanh nghiệp, cá nhân của Việt Nam hoặccác giao dịch trên lãnh thổViệt Nam thựchiện, tránh hiện tượngáp dụng luật tùy nghi nhưhiện nay.
b) Siếtchặt việc quản lý ngoạihối từphía các cơ quan chức năng
Để kiểm soát chặtcác giao dịch ngoại hối, không chỉphụ thuộcvào sự
nỗ lực củamột số cơ quan chuyên trách như Ngân hàng Nhà nước, quản lý thịtrường,... mà còn đòi hỏi sự phốikết hợp của rấtnhiều các cơ quan quản lý Nhà nước khác: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, Kiểm toán,... và ý thứchiểu biết,tuân thủ pháp luật củadoanh nghiệp, người dân. Kiểm
soát và hạn chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế chính là mộtcách kiểm soát lạm phát, tăng giá trịtiền đồng, thúc đẩy xuấtkhẩu, ổnđịnh và phát triển kinh tế nộiđịa, tạo dựng niềm tin củanhân dân đốivới chính sách tiền tệcủa Nhà nước ta.
c) Tuyên truyền, phổbiến pháp luật đến người dân và doanh nghiệp
Về nguyên tắc,đối với bấtkỳ mộtvăn bản pháp quy nào, để đến được
với đông đảo quần chúng nhân dân, các cơ quan hữu quan không thểbỏ qua biện pháp tuyên truyền. Quy định về ngoại hốilà mộttrong những vấn đề nóng và nhạy cảm, vì nó liên quan trực tiếp đếnquyền, lợi ích của các doanh nghiệp. Do vậy, việc tuyên truyền phải đi đôi với giải thích, phân tích và giải đáp đượcnhững thắc mắc,nêu đượcnhững quyền, lợi ích cũngnhư rủi ro củadoanh nghiệp,sự tương thích giữalợi ích củadoanh nghiệp và chính sách ổn định kinh tếvĩ mô của Nhà nước, để từ đó tạo được một diễn đàn
mở với nhữngnguồn thông tin trao đổi hai chiều để có biện pháp dung hòa lợi ích giữa các bên, góp phần đưa các quy định pháp luật đến gần hơn, hợplý hơn đối với nhân dân.
d) Tạomột hành lang pháp lý an toàn và tạo một môi trường kinh tế nội địa ổn định, bình ổn giá trị tiềnđồng để doanh nghiệp yên tâm khi thựchiện giao dịch
Song song với các biệnpháp trên thì việcxây dựng, kiểmsát việc tuân thủ các quy định pháp luật và kiểm tra, giám sát tính khảthi của các quy định pháp luậttrên thực tế, là một yêu cầu không thể thiếu đối với sựphát triển của nền kinh tế quốcdân, tạoniềm tin cho các doanh nghiệpkhi tham gia kinh doanh. Pháp luật cần phải đượchiểu và áp dụngthống nhất,nếu như có nhữngquy định chưa rõ ràng và ra đến cơ quan chức năng, thanh tra hay tòa án, mỗi cơ quan lạicó cách hiểu và xử trí khác nhau vềcùng một vụ việcthì tất yếu sẽ gây nên tâm lý bất ổn cho nhữngngười thực hiện giao dịch.
Song song với các biệnpháp trên thì việcxây dựng, kiểmsát việc tuân thủ các quy định pháp luật và kiểm tra, giám sát tính khảthi của các quy định pháp luậttrên thực tế, là một yêu cầu không thể thiếu đối với sựphát triển của nền kinh tế quốcdân, tạoniềm tin cho các doanh nghiệpkhi tham gia kinh doanh. Pháp luật cần phải đượchiểu và áp dụngthống nhất,nếu như có nhữngquy định chưa rõ ràng và ra đến cơ quan chức năng, thanh tra hay tòa án, mỗi cơ quan lạicó cách hiểu và xử trí khác nhau vềcùng một vụ việcthì tất yếu sẽ gây nên tâm lý bất ổn cho nhữngngười thực hiện giao dịch.
Quản lý ngoại hối hiện đang là vấn đề “nóng”, các doanh nghiệp vẫn đang trông chờ vào những động thái tích cực và cụ thểtừ phía Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan chứcnăng để tìm ra đường đi hợp lý nhất cho mình, vừa đúng luật,vừa đảm bảo lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp.
Đăng nhận xét